Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong giai đoạn hiện nay, để tiếp tục làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng sâu sắc những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, cần tập trung nghiên cứu, quán triệt nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhóm vấn đề sau:
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam
Bằng hoạt động thực tiễn và tư duy lý luận, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách cơ bản vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.

- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
+ Về vấn đề dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: thực chất của vấn đề dân tộc thuộc địa đầu thế kỷ XX là xác định đúng con đường phát triển của dân tộc. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa. Quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Với tinh thần đó, Người khẳng định quyết tâm: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”...
+ Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong phong trào giải phóng dân tộc, Người khẳng định: vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết. Độc lập dân tộc mà chưa giành được thì vấn đề giai cấp cũng không giải quyết được. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.
+ Về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh, mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc trước hết là phải giành lại nền độc lập cho Tổ quốc; cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản; cách mạng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc là sức mạnh của toàn dân tộc...
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, thể hiện một cách tập trung những luận điểm sáng tạo lớn về lý luận và phản ánh tính triệt để cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng, con đường cách mạng Việt Nam có hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ thì độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cấp bách, nhưng không phải là mục tiêu cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc tạo tiền đề, điều kiện để nhân dân lao động tự quyết định con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Chủ nghĩa xã hội là con đường củng cố vững chắc độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc một cách hoàn toàn triệt để.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Nội dung cơ bản bao gồm:
+ Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ. Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bạn bè, đồng chí, là anh em; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình.
+ Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng; các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi.
+ Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Về mục tiêu: Hồ Chí Minh khẳng định, xây dựng chủ nghĩa xã hội bao gồm cả chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và xây dựng con người.
+ Về động lực: Người chỉ rõ, quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động, nòng cốt là công - nông - trí thức. Trong thực hiện, phải kết hợp giữa cá nhân với xã hội; coi trọng động lực kinh tế, phát triển kinh tế, sản xuất, kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất. Phải quan tâm tới văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực tinh thần không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
+ Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó bao trùm lớn nhất là đặc điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
+ Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Người chỉ rõ: phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Về phương châm xây dựng chủ nghĩa xã hội: Hồ Chí Minh chỉ rõ, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một quá trình phổ biến, có tính quy luật trên thế giới, nhưng phải xuất phát từ điều kiện cụ thể, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân. Vì vậy, phải thận trọng từng bước một, từ thấp đến cao, không chủ quan, nôn nóng. Người chỉ rõ: Ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ hai bàn tay trắng đi lên thì khó khăn còn nhiều và lâu dài[1], “phải làm dần dần”, “không thể một sớm, một chiều”, “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại”. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm chính. Xây dựng phải có kế hoạch, biện pháp, đặc biệt là quyết tâm (chỉ tiêu 1, biện pháp 10, quyết tâm 20) để thực hiện thắng lợi kế hoạch đề ra.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều luận điểm, tư tưởng chỉ đạo sáng suốt, có tính nguyên tắc về phát triển kinh tế ở Việt Nam, đó là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; phải xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp và nông nghiệp hợp lý; tính tất yếu khách quan phải tiến hành công nghiệp hóa; các hình thức sở hữu, thành phần kinh tế và định hướng lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam; phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc.
+ Về xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang nhân dân: Theo Hồ Chí Minh, đây là hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và đấu tranh cách mạng, phối hợp chặt chẽ và bổ sung cho nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp của cuộc kháng chiến. Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng lực lượng chính trị quần chúng, đồng thời chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích.
+ Về xây dựng bản chất cách mạng và ý thức chính trị cho quân đội: Theo Hồ Chí Minh, việc xây dựng bản chất cách mạng, ý thức và trình độ chính trị cho lực lượng vũ trang được đặc biệt quan tâm và tổ chức thực hiện một cách chặt chẽ, có hệ thống thông qua vai trò đội ngũ chính trị viên, cơ quan chính trị, tổ chức đảng trong quân đội. Người nhấn mạnh vai trò của giáo dục chính trị: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”[2]. Người xác định quân đội ta có ba chức năng: đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng.
Về sức mạnh của lực lượng vũ trang, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của yếu tố con người “người trước, súng sau”. Đó là sự thống nhất giữa người cầm vũ khí với vũ khí, trong đó người cầm vũ khí đóng vai trò quyết định. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nêu lên các vấn đề về nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giáo dục chính trị, tư tưởng, kỷ luật…
+ Về xây dựng thế trận lòng dân, nền quốc phòng toàn dân: Theo Hồ Chí Minh, để kháng chiến bảo vệ Tổ quốc phải luôn chăm lo xây dựng thế trận lòng dân, đó là sức mạnh vật chất, nguồn nhân lực và sức mạnh tinh thần, mà lòng dân là sức mạnh đặc biệt to lớn.
Về quốc phòng, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền quốc phòng toàn dân, toàn diện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.
c) Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và đại đoàn kết toàn dân tộc
- Về phạm trù nhân dân.
Đối với Hồ Chí Minh, nhân dân là phạm trù cao quý nhất, một phạm trù chính trị chủ đạo trong học thuyết cách mạng của người. Người viết: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[3].
- Về không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Người chỉ rõ, là công bộc, là đày tớ của dân, thì Đảng, Chính phủ và mỗi cán bộ, đảng viên phải chăm lo cho đời sống của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Người nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: Làm cho dân có ăn; làm cho dân có mặc; làm cho dân có chỗ ở; làm cho dân có học hành.
- Về đại đoàn kết toàn dân tộc.
Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khái quát luận điểm có tính chân lý về vai trò của khối đại đoàn kết, đó là: Đoàn kết làm ra sức mạnh; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”...
Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân để giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc. Để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng yêu nước và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc.
Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân, với đại đa số là công nhân, nông dân. Người viết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác”[4]. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để lôi kéo, tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.
d) Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa và con người
- Khái niệm văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh quan niệm: văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời đó cũng là mục đích của cuộc sống loài người. Người viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[5].
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới.
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hóa dân tộc phải được xây dựng trên năm điểm lớn sau đây:
+ Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
+ Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
+ Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội.
+ Xây dựng chính trị: nhân quyền.
+ Xây dựng kinh tế.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người.
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người: con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Người viết: “Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”[6].
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược trồng người: “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. Con người phải đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Theo Người, trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những “con người xã hội chủ nghĩa”. Đó là những con người gồm hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau:
Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông).
Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.
Để thực hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội, “một sớm, một chiều”.
đ) Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ.
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ: dân chủ có nghĩa “dân là chủ”; đối lập với quan niệm “quan chủ”, thể hiện bản chất trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Người khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ; chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ; nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ…
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà nước.
+ Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ: Theo Người, cần phải xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi; xây dựng các tổ chức đảng, Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
+ Về Nhà nước pháp quyền: Theo Người, đó là nhà nước của dân, nhà nước do dân và nhà nước vì dân. Nhà nước của dân là tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do dân là Nhà nước do nhân dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý. Nhà nước vì dân là Nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu; tất cả đều vì lợi ích của nhân dân; ngoài ra, không có bất cứ một lợi ích nào khác.
+ Về bản chất giai cấp của Nhà nước: Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam mới là một Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân. Đó là Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo; bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước; nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ.
+ Về xây dựng Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ: Người cho rằng, hoạt động quản lý của Nhà nước phải bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật vào cuộc sống; phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ sức và đủ tài.
e) Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng
 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng.
+ Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, Người chỉ rõ: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930. Đây không chỉ là đặc thù của Việt Nam, mà còn là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
+ Về vai trò lãnh đạo của Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mệnh trước hết “phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[7]. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với quy luật phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
+ Về bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, Người chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đội tiên phong của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng dựa trên cơ sở Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, thực hiện vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mặt khác, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam đấu tranh giành lại nền độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, nên được toàn thể nhân dân lao động và cả dân tộc thừa nhận và đi theo. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Xây dựng Đảng là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Trong điều kiện Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng càng phải được tiến hành thường xuyên hơn.
Theo Hồ Chí Minh, nội dung công tác xây dựng Đảng cần tập trung vào xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; xây dựng Đảng về tổ chức; xây dựng Đảng về đạo đức. Đồng thời, phải chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng: nguyên tắc tập trung dân chủ; nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; nguyên tắc tự phê bình và phê bình; nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác; nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng.



[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr.681.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.217.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.453.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.244.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.458.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.281.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.289.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét