_________
Giới thiệu tóm tắt Tác phẩm Hệ tư tưởng đức
C.Mác và Ph.Ăng
ghen (1846) toàn tập, Nxb. CTQG, H.
1995, tập 3, tr.15-793
Tác phẩm Hệ
tư tưởng Đức được C.Mác và Ph.Ăng ghen cộng tác viết từ năm 1845 đến 1846.
Đây là tác phẩm có qui mô lớn nhất trong thời kỳ hình thành triết học Mác nói
riêng và hình thành chủ nghĩa Mác nói chung.
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
1. Tình hình Châu Âu giữa thế kỷ
XIX
Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở Châu Âu, tiêu biểu như một số nước: Anh
(1864-1820); Pháp (những năm 40-60 thế kỷ XIX), Đức (1871)… làm cho lực lượng
sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ, chủ nghĩa tư bản được thiết lập ở
một số nước Châu Âu. Mâu thuẫn giữa tính
chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong lòng xã hội tư bản ngày càng
bộc lộ rõ hơn. Biểu hiện về mặt
xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản nổ ra ở nhiều nơi. Tiêu biểu
như : khởi nghĩa của công nhân dệt ở thành phố Lyon (Pháp) năm 1837, cuộc khởi
nghĩa của công nhân vùng Xêlêdi (Đức); và phong trào hiến chương (Anh) kéo dài
10 năm 1838-1848 nhưng đều thất bại. Tuy nhiên giai cấp công nhân đã chứng tỏ
là một lực lượng chính trị độc lập trên vũ đài quốc tế.
2. Tình hình nước Đức
giữa thế kỷ XIX
Do ảnh hưởng
của cuộc cách mạng công nghiệp, và kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Châu Âu, kinh tế
Đức từ phương thức sản xuất phong kiến đã phát triển mạnh theo hướng tư bản chủ
nghĩa.
Giai cấp công
nhân và phong trào công nhân Đức không ngừng lớn mạnh. Trong khi đó, giai cấp
tư sản Đức non yếu cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, vừa ghét, vừa sợ chế
độ chuyên chế quân chủ, vừa sợ giai cấp công nhân và phong trào công nhân.
Nước Đức chứa
đầy mâu thuẫn, nổi lên là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân và giai cấp công
nhân với giai cấp địa chủ phong kiến; mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai
cấp tư sản. Những mâu thuẫn đó đã đẩy nước Đức trước cuộc cách mạng xã hội.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Đức phát triển nhưng vẫn chưa giành
được thắng lợi.
Tư tưởng ở nước Đức lúc này diễn biến
rất phức tạp : các trào lưu tư tưởng chen đua nhau mọc lên như nấm, cuộc đấu
tranh giữa các trào lưu tư tưởng rất quyết liệt. Nền triết học cổ điển Đức tỏ
ra lạc hậu : chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen bị phân hoá, C.Mác, Ph.Ăng
ghen khẳng định:"Quá trình tan rã của hệ thống Hêghen bắt đầu" (1);
chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoi-ơ-Bắc không tiến lên được nữa, mặc dù
trước đó nó có tiến bộ nhất định. Phái “Hê ghen trẻ”- những đại biểu tư sản cấp
tiến theo xu hướng cải lương. Tư tưởng duy tâm của phái “Hê ghen” và sau Hê
ghen đang cản trở dân tộc Đức trước cuộc cách mạng tư sản, đồng thời có ảnh
hưởng tiêu cực đến giai cấp công nhân và phong trào công nhân. Trước bối cảnh
đó C.Mác và Ph.Ăng ghen đã cộng tác viết và cho ra đời tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức, nhằm mục đích; phê phán nền triết học cổ điển Đức, hạt nhân là thế
giới quan, phương pháp luận duy tâm trên các lĩnh vực khác nhau của lịch sử xã
hội; trình bày những cơ sở khoa học của một học thuyết mới nhằm cải biến hiện
thực bằng hoạt động thực tiễn chứ không phải bằng tư duy thuần tuý, trìu tượng;
đấu tranh giải phóng triệt để giai cấp công nhân và những người lao động bị áp
bức, đồng thời C.Mác Ph.Ăng ghen cũng đoạn tuyệt với những nhận thức quá khứ
của mình, khẳng định bước chuyển lập trường của mình từ dân chủ tư sản sang lập
trường xã hội chủ nghĩa.
II. TƯ TƯỞNG
CHỦ YẾU VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1. Tư tưởng chủ yếu
của tác phẩm
Trên cơ sở phê phán những quan điểm duy
tâm của triết học cổ điển Đức, duy tâm tư biện của Phoi-ơ-Bắc, B.Bau-Ơ,
Stiếc-nơ, C.Mác, Ph.Ăng ghen trình bày những quan điểm duy vật lịch sử. Thông
qua mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại
xã hội và ý thức xã hội, vạch rõ tính tất yếu lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội thông qua cách mạng vô sản; khẳng định chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột.
2. Nội dung cơ
bản của tác phẩm
Nghiên cứu tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” cần nghiên cứu tất cả các chương, nhưng đi sâu vào
chương 1 của tập 1 nghiên cứu về những quan điểm khoa học và cách mạng của
C.Mác, Ph.Ăng ghen, vận dụng vào xây dựng và hoạt động của Đảng, nhất là trong
công tác tư tưởng của Đảng.
a) Mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
- Mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Ý thức cá nhân
và ý thức xã hội quan hệ với nhau rất chặt chẽ, ý thức cá nhân mang bản chất xã
hội, do ý thức xã hội quy định và quyết định : "Ngay từ đầu ý thức là một
sản phẩm xã hội và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại" (2)
Tồn tại xã hội
và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng, trong đó tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội. C.Mác Ph.Ăng ghen chỉ rõ : "Không phải ý thức quyết định
đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức" (3) . Nhìn chung, tồn tại
xã hội nào thì ý thức xã hội ấy, khi tồn
tại xã hội đã thay đổi thì sớm muộn ý thức xã hội cũng thay đổi theo. Tồn tại
xã hội quyết định nội dung, xu hướng vận động, phát triển của ý thức xã hội.
(1) Sđd.tr.23; (2) tr.43, (3) tr.38
Mặc dù bị tồn
tại xã hội quyết định nhưng ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, phản ánh
tồn tại xã hội với hai cấp độ : ý thức thông thường (tâm
lý xã hội) và ý thức luận (hệ tư tưởng),
ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội theo hai chiều hướng cơ bản : Nếu
là ý thức tư tưởng tiên tiến, phản ánh đúng đắn tồn tại xã hội, vạch ra được
bản chất, quy luật, khuynh hướng vận động phát triển của tồn tại xã hội thì sẽ
thúc đẩy sự phát triển của tồn tại xã hội. Ngược lại, ý thức tư tưởng lạc hậu,
phản ánh không đúng tồn tại xã hội thì sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã
hội. Tuy nhiên, sự kìm hãm đó chỉ có giới hạn nhất định vì xét đến cùng thì tồn
tại xã hội vẫn quyết định ý thức xã hội. Tính chất và hiệu quả tác động của ý
thức xã hội phụ thuộc vào vai trò lịch sử của giai cấp đề ra tư tưởng và nghệ
thuật, truyền bá hệ tư tưởng đó vào đời sống xã hội.
*. Ý nghĩa đối với công tác xây dựng Đảng
Hiện thực khách quan,
đời sống kinh tế, xã hội làm nảy sing tư tưởng, ý thức của con người và ý thức
xã hội.
Hệ tư tưởng lý luận,
quan điểm đường lối của Đảng phải là sản phẩm trí tuệ phản ánh đúng hiện thực
khách quan, thực tiễn cách mạng, không chủ quan duy ý chí.
- Hệ thống lý
luận tiên tiến mang bản chất cách mạng, khoa học có vai trò to lớn trong hướng
dẫn nhận thức để cải tạo hiện thực khách quan hợp quy luật.
- Tư tưởng,
đường lối, quan điểm của Đảng của giai cấp công nhân chỉ trở thành hiện thực
khi thông qua hoạt động thực tiễn. Qua thực tiễn kiểm nghiệm lý luận, đúc rút
kinh nghiệm từ thực tiễn, tổng kết thực tiễn,
bổ sung, phát triển lý luận.
- Mọi đường
lối, tư tưởng, quan điểm lý luận của Đảng chi phối mạnh mẽ đến nhận thức của
từng cá nhân trong Đảng, trong giai cấp, trong xã hội. Nhưng đồng thời những
nhận thức, quan điểm, tư tưởng lý luận ngày càng được bổ sung phát triển, hoàn
chỉnh bằng sự kết tinh hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân lao động và
của cán bộ, đảng viên.
Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin cho giai cấp công
nhân, phong trào công nhân và cho mọi tầng lớp nhân dân lao động, làm cho chủ nghĩa
Mác – Lênin giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của toàn xã hội.
Vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng, định ra đường lối chiến
lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo, đưa sự nghiệp cách mạng phát triển. Đồng
thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, phải nghiên cứu, phát triển lý luận,
đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn, giải quyết có hiệu quả những vấn đề
thực tiễn đặt ra.
- Khi nghiên
cứu, phân tích, đánh giá xem xét tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng phải
xuất phát từ thực tiễn, việc xây dựng tư tưởng, nhận thức phải là một quá trình
bền bỉ, tránh nôn nóng chủ quan.
Muốn nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực tư duy, ý chí quyết tâm phải kết hợp chặt chẽ giữa
nâng cao nhận thức khoa học với hoạt động thực tiễn, đánh thức tiềm năng, rèn
luyện phương pháp tư duy khoa học, phương pháp vận dụng lý luận vào hoạt động
thực tiễn.
Quân đội với
chức năng chủ yếu là đội quân chiến đấu, do đó xây dựng quân đội vững mạnh là
một đòi hỏi khách quan, trước hết được biểu hiện ở sức mạnh vật chất của quân
đội. Song công tác chính trị – tư tưởng có vai trò rất quan trọng góp phần tạo
nên sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm quân đội trung thành với Đảng, Tổ
quốc và nhân dân, xây dựng ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Phải kết hợp
giáo dục tư tưởng, lý luận với cải tạo xây dựng
môi trường xã hội lành mạnh, tạo điều kiện cho cán bộ chiến sĩ quân đội
phát triển toàn diện về nhân cách.
b) Tính giai
cấp của ý thức xã hội
*. Những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăng ghen
Ngược lại với những quan điểm duy tâm vừa
phủ định, vừa tìm cách che dấu bản chất giai cấp của ý thức xã hội trong điều
kiện xã hội tồn tại sự phân chia và đối kháng giữa các giai cấp. C.Mác và
Ph.Ăng ghen khẳng định: Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội bao giờ cũng
mang bản chất giai cấp sâu sắc, hai ông chỉ rõ: "Giai cấp nào là lực lượng
vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong
xã hội" (1) (1)
Sđd.tr.66
Hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân là hệ tư tưởng cách mạng, khoa học, là ngọn cờ giải phóng
dân tộc, giải phóng quần chúng bị áp bức bóc lột, phản ánh tiến trình khách
quan của lịch sử. Hệ tư tưởng vô sản đối lập với hệ tư tưởng tư sản, hệ tư
tưởng của giai cấp tư sản bảo vệ chế độ người bóc lột người.
C.Mác, Ph.Ăng
ghen đã chỉ ra giai cấp thống trị ở Đức lúc bấy giờ đã tuyệt đối hoá, thần bí
hoá tư tưởng thống trị như : "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần
tuyệt đối", "sự quy định"… để buộc quần chúng phải khuất phục
giai cấp thống trị một cách mù quáng, về thực chất là bảo vệ quyền lợi cho chế
độ đương thời.
*.
Ý nghĩa đối với công tác xây dựng Đảng
Hệ tư tưởng lý luận
của Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân, gồm toàn bộ những mặt,
những thuộc tính, những mối quan hệ cơ bản nhất quy định Đảng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Bản chất ấy thể hiện trước hết ơ mục
đích, lý tưởng ; ở hệ tư tưởng, ở các tổ chức sing hoạt Đảng ; ở mối quan hệ
giữa Đảng với dân ; ở sự kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công dânvà biểu hiện trực tiếp ở bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, lối sống, trình độ năng lực của cán bộ Đảng viên của Đảng.
Bản chất giai cấp công nhân là yếu tố có ý nghĩa quyết định tới năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng luôn là đội tiên phong chính trị,
lực lượng lãnh đạo có uy tín.
- Giai cấp công nhân
và Đảng cộng sản tiến hành cách mạng vô sản không chỉ lật đổ ách
thống trị của giai cấp tư sản, mà phải xoá bỏ cả hệ thống tư tưởng thống trị
của giai cấp tư sản.
- Khi giành chính
quyền, giai cấp công nhân, Đảng cộng sản không chỉ thiết lập chế độ thống trị
về kinh tế, chính trị, xã hội mà còn thiết lập sự thống trị trên lĩnh vực tư
tưởng, tinh thần, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng thống trị.
- Đấu tranh trên mặt
trận chính trị, tư tưởng, lý luận bao giờ cũng là cuộc đấu tranh bị chi phối và
phản ánh tính giai cấp, tính đảng sâu sắc. Vì vậy, trong công tác giáo dục quần
chúng không được mơ hồ, lẫn lộn bản chất giai cấp giữa các tư tưởng. Đấu tranh
tư tưởng, xây dựng tư tưởng, không tách rời với đấu tranh giai cấp, trái lại nó
phản ánh và gắn chặt với đấu tranh giai cấp. Công tác tư tưởng, phải mang tính
chiến đấu sắc bén, bảo vệ tư tưởng của Đảng, phê phán, bác bỏ tư tưởng sai
trái, thù địch.
Quân đội ta do Đảng
cộng sản Việt Nam
và chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quân đội ta luôn phát huy bản chất giai cấp công nhân, không xa rời mục
tiêu chiến đấu vì lý tưởng của Đảng. Hiện nay, chủ nghĩa Đế quốc, đứng đầu là
Đế quốc Mỹ thực hiện thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội thực chất là hòng
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội xa rời
phương hướng chính trị, giai cấp, xa rời lập trường quan điểm giai cấp công dân
dẫn tới vô hiệu hoá quân đội. Do đó cần nhận thức sâu sắc quan điểm của học
thuyết Mác-Lê nin về tính giai cấp của ý thức xã hội, đấu tranh không khoan
nhượng trước sự chống phá của kẻ thù trên mặt trận chính trị tư tưởng bảo đảm
cho Đảng luôn lãnh đạo chặt chẽ quân đội, làm cho quân đội trung thành tuyệt
đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
c) Vai trò của
quy luật khách quan, điều kiện khách quan và tính năng động chủ quan của con
người
C.Mác, Ph.Ăng
ghen phê phán những quan điểm của các
nhà duy tâm và duy vật trực quan không nhận thức được bản chất và khả năng hiện
thực của con người, không nhận thức được khả năng thực tiễn và khả năng cách
mạng của giai cấp vô sản, họ coi khinh quần chúng lao động. Phoi-ơ-Bắc
cho rằng : "Con người với tính cách
con người", chứ không phải "con người lịch sử hiện thực" (1)
Sđd.tr.61 . C.Mác, Ph.Ăng ghen chỉ rõ: Phoi-ơ-Bắc không xem xét con
người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh
hoạt hiện có của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng
như họ đang tồn tại trong thực tế thì Phoi-ơ-Bắc cũng không bao giờ đi tới được
những con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn dừng lại ở một sự
trừu tượng "con người" và chỉ đóng khung ở chỗ thừa nhận con người
"hiện thực, cá thể, bằng xương, bằng thịt" trong tình cảm thôi, nghĩa
là ông không biết đến những "quan hệ con người", "giữa người với
người" nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa lại là tình
yêu và tình bạn được lý tưởng hoá" (2) Sđd tr.64
C.Mác, Ph.Ăng ghen phê
phán quan niệm trước đây cho rằng lịch sử luôn luôn được viết theo một tiêu
chuẩn nằm ở bên ngoài lịch sử. Ngược lại với những quan điểm duy tâm, chủ quan,
phiến diện của các đại biểu triết học Đức lúc đó, C.Mác và Ph.Ăng ghen cho rằng
: lịch sử luôn vận động, phát triển theo những quy luật khách quan. "Lịch
sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của những thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế hệ
đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả
những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động
được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi và mặt khác lại
biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi" (1)
.
C.Mác, Ph.Ăng ghen còn chỉ rõ : con người
là một thực thể sinh vật xã hội lịch sử, bản chất con người là tổng hoà các mối
quan hệ xã hội. Con người có khả năng thực tiễn, có khả năng sáng tạo, nhận
thức được những qui luật khách quan. Con người có vai trò to lớn, là yếu tố
năng động cách mạng, là động lực của lịch sử. Bằng chính hoạt động thực tiễn,
hoạt động vật chất con người làm biến đổi hiện thực và biến đổi ngay chính bản
thân con người. C.Mác, Ph.Ăng ghen khẳng định : "Con người tạo ra hoàn
cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy" (2) .
Đồng thời Hai ông cũng chỉ ra : Những điều kiện khách quan, những phương tiện
vật chất làm cơ sở để cải biến cách mạng bằng thực tiễn chứ không phải lối tư
duy thuần tuý, những lời nói suông.
*. Ý nghĩa đối với công tác xây dựng Đảng
- Đảng là một tổ chức chính trị, một thực
thể vật chất -xã hội lịch sử, cho nên Đảng phải xây dựng trên cơ sở tuân thủ
quy luật khách quan trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể. Những
quy luật, điều kiện khách quan ấy chi phối đến phẩm chất, năng lực nhận thức và
hoạt động của Đảng.
- Đảng có vai
trò định hướng sự vận động, phát triển của tiến trình lịch sử, vai trò đó tuỳ
thuộc vào năng lực chủ quan của Đảng. Thông qua hoạt động thực tiễn Đảng thực
hiện mục tiêu lý tưởng và thông qua đó Đảng trưởng thành về mọi mặt. Khi tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội thay đổi, nhiệm vụ chính trị của Đảng cũng phải
phát triển kịp thời, ngang tầm với đòi hỏi của tình hình.
- Giai cấp công dân và Đảng cộng sản phải
nắm vững quy luật khách quan, nhất là quy luật của xã hội, của cách mạng vô
sản, những nguyên lý, nguyên tắc trong xây dựng và hoạt động của Đảng, có như
vậy mới bảo đản tính đúng đắn trong hoạch định đường lới chiến lược và sách
lược của cách mạng.
- Muốn lật đổ
ách thống trị của giai cấp tư sản, Đảng cộng sản và giai cấp công nhân phải có
lực lượng vật chất tương ứng. Lực lượng vật chất tương ứng của giai cấp vô sản
chính là những yếu tố bảo đản cho sự lớn mạnh và trưởng thành của giai cấp vô
sản, đặc biệt là phải có lực lượng cách mạng và phong trào cách mạng. Nghĩa là
phải phát triển giai cấp vô sản cả về số lượng và chất lượng, phải đẩy mạnh
phong trào công nhân, làm cho phong trào công nhân trở thành lực lượng chính
trị độc lập, đủ khả năng tập hợp sức mạnh để chiến thắng giai cấp tư sản.
(1), (2), Sđd tr.65, tr.55
- Xây dựng ý
thức hệ, tư tưởng, tình cảm của con người phải gắn chặt với xây dựng, cải tạo
những điều kiện vật chất - xã hội có như vậy mới xây dựng được niềm tin, mới
khắc phục được khuynh hướng tuyệt đối hoá về tư tưởng dẫn tới chủ quan duy ý
chí, thoát ly thực tiễn.
Để phát huy vai trò năng động chủ quan
của con người, Đảng cộng sản phải làm tốt công tác giáo dục, nâng cao giác ngộ
cho giai cấp công dân và quần chúng nhân dân lao động, thấm nhuần mục tiêu lý
tưởng, xây dựng tình cảm cách mạng, nhận thức sâu sắc quyền và nghĩa vụ trong
thực hiện nhiệm vụ của cách mạng. Xem xét đánh giá con người phải khách quan,
toàn diện, xét đến các mối quan hệ; xây dựng cải tạo con người cũng phải toàn
diện, công phu, phát huy năng lực sáng tạo của con người trong thực tiễn và
thông qua thực tiễn mà bồi đắp tư tưởng xây dựng con người mới. Để phát huy vai
trò của tư tưởng, lý luận phải thông qua các phong trào hành động cách mạng,
phong trào thực tiễn của quần chúng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ,
Đảng viên phát triển toàn diện và cống hiến được nhiều cho cách mạng.
Quân đội hoạt
động xây dựng và chiến đấu phải tuân theo quy luật của chiến tranh đặc biệt quy
luật “mạnh được - yếu thua”. Do đó ngoài việc chuẩn bị tốt những điều kiện vật
chất, trang bị, khí tài phải việc chăm lo xây dựng cán bộ chiến sỹ có trình độ,
bản lĩnh chính trị để vượt qua khó khăn gian khổ. Đảng, Nhà nước, quân đội cần
giáo dục, động viên, chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất, tinh thần cho cán
bộ chiến sỹ để họ yên tâm, yêu mến, gắn bó với quân đội.
d) Cách mạng là
động lực thúc đẩy lịch sử phát triển
C.Mác, Ph.Ăng
ghen phê phán phái Hê ghen trẻ cho rằng : động lực thúc đẩy lịch sử phát triển
là sự suy diễn lý luận, là sự phê phán coi quần chúng chỉ là những chất liệu
thiếu sức sống, yếu đuối và bất lực, thậm chí là vật cản trở quá trình phát
triển của lịch sử; cho rằng công việc của công nhân bao giờ cũng vẫn là một cái
đơn chất nào đó họ chẳng tạo ra cái gì hết ngoài việc nhằm thoả mãn nhu cầu của
chính họ và vì thế, họ có đấu tranh cũng chẳng để làm gì.
C.Mác và Ph.Ăng ghen cho rằng: Cách mạng là kết quả của sự vận động biến đổi khách quan, là động lực
thúc đẩy lịch sử phát triển, chứ không phải là sự suy diễn lý luận, không phải
sự phê phán. C.Mác, Ph.Ăng ghen nhấn mạnh "không phải sự phê phán mà cách
mạng mới là động lực thúc đẩy lịch sử phát triển" (1) Sđd.tr.54
Cách mạng không chỉ làm biến đổi lịch sử
mà làm biến đổi cả tư tưởng nhận thức,
tư duy của người. Con người là chủ thể sáng tạo, đồng thời con người là trung
tâm của lịch sử, con người nhận thức được chính mình. Hoạt động lịch sử càng to
lớn bao nhiêu thì vai trò quần chúng càng lớn bấy nhiêu. Kẻ thù của sự tiến bộ
cách mạng chính là sản phẩm của chủ nghĩa duy tâm thần bí, cản trở quần chúng,
buộc quần chúng phải sợ hãi… C.Mác,
Ph.Ăng ghen cho rằng : quần chúng là người sáng tạo, công nhân là người
sáng tạo ra tất cả. Phong trào quần chúng là phong trào hoạt động vật chất sinh
động và có sức mạnh to lớn trong cải tạo xã hội. Công nhân và quần chúng không
chỉ sáng tạo ra vật chất, tinh thần mà còn sáng tạo ra con người, chủ thể của
mọi sự sáng tạo. Sức sáng tạo của công nhân ở chỗ có tổ chức, nghĩa là khi giai
cấp công nhân giác ngộ được nguồn gốc bóc lột và tư hữu, ý thức được sức mạnh
đoàn kết, ý thức được con đường đấu tranh, tự giác hoạt động liên minh, liên
kết trong hoạt động và có hoạt động chính trị độc lập, không theo đuôi giai cấp
tư sản.
*. Ý nghĩa đối với xây dựng Đảng
Cách mạng vô
sản là quy luật khách quan trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội, đó là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để nhất mang ý nghĩa tiến bộ,
nhân đạo sâu sắc, bởi nó xoá bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, xoá bỏ mọi
áp bức bất công nhằm giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải
phóng nhân loại.
Đảng và giai
cấp công nhân chỉ thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình thông qua cách mạng vô
sản. Thông qua con đường cách mạng đập tan nhà nước của giai cấp tư sản, thiết
lập chuyên chính vô sản và sử dụng nhà nước chuyên chính vô sản bảo vệ, củng cố
quyền thống trị đối với toàn xã hội. Đồng thời, thông qua cách mạng vô sản mà
giai cấp công nhân trưởng thành cả về số và chất lượng, nhận thức và hành động,
lý luận và thực tiễn, khẳng định vai trò lãnh đạo xã hội.
Giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhận thức
phải thông qua và gắn chặt với các phong trào cách mạng, gắn lý luận với thực
tiễn, gắn học với hành; phải biến tư tưởng, nhận thức và quyết tâm của công
nhân, của quần chúng thành hành động cách mạng cụ thể, tránh chủ quan duy ý
chí, giáo điều.
KẾT LUẬN
- Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” đã bóc
trần sự hạn chế, lỗ thời, lạc hậu của nền triết học cổ điển Đức, giải thoát cho
giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi những quan niệm duy tâm.
- Cung cấp những cơ sở khoa học, trình
bày những nguyên lý, lý luận cơ bản về chủ nghĩa duy vật lịch sử, trang bi cho
giai cấp công nhân thế giới quan, phương pháp luận trong xem xét sự vận động
tất yếu từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Vạch ra cho giai cấp công nhân, các Đảng cộng sản, nhân
dân lao động hiểu rõ vai trò to lớn của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, sự
cần thiết phải kiên định và bảo vệ, phát triển hệ tư tưởng cách mạng và khoa
học. Chỉ rõ những quy luật khách quan, vai trò của con người trong nhận thức
những quy luật khách quan ấy để tiến hành cải biến cách mạng, xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp hơn.
- Tác phẩm tới nay còn nguyên giá trị, giai cấp công nhân
và các Đảng cộng sản nói chung, Đảng ta nói riêng cần tiếp tục nghiên cứu vận
dụng, làm sâu sắc những vấn đề cơ bản của tác phẩm, tiến hành có hiệu quả công
tác tư tưởng, lý luận của Đảng, công tác chính trị – tư tưởng trong lực lượng
vũ trang nhân dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét