Hiện nay, một số học sinh, sinh viên ngại học lịch sử truyền thống của dân
tộc, của Đất nước. Đòi hỏi, các cấp, các ngành tăng cường giáo dục truyền
thống, nhất là truyền thống dân tộc. Qua đây giới thiệu cho học sinh, sinh viên
một số nét tiêu biểu về trường thống của dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã nêu những giá trị truyền
thống nổi bật là “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc, lòng
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Có thể khái quát một số giá
trị truyền thống tiêu biểu sau:
Thứ nhất, lòng yêu
nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc.
Yêu nước là tình cảm thiêng liêng của dân tộc ta từ xưa đến nay. Yêu nước
biểu hiện ở khát vọng và hành động luôn đặt lợi ích của tổ quốc, của quốc gia -
dân tộc và của nhân dân lên trên hết; là tình yêu quê hương, đất nước và con
người, niềm tự hào về Tổ quốc mình, ra sức chăm lo xây dựng quê hương, đất
nước, quyết hy sinh để đập tan ách đô hộ và kẻ thù xâm lược; là ý thức sâu sắc
về độc lập dân tộc, tự chủ, bảo vệ chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia, gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Lòng yêu nước của dân tộc ta được hình thành từ rất sớm và có nguồn gốc sâu
xa từ ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc. Từ những
tình cảm bình dị và gần gũi đối với những người ruột thịt, dần dần phát triển
thành tình cảm gắn bó với làng xóm, quê hương và cao hơn hết là lòng yêu nước,
tự tôn dân tộc. Lòng yêu nước của dân tộc ta không chỉ là tình cảm mà còn trở
thành triết lý sống và phương châm ứng xử, chỉ dẫn hành động, khẳng định các
giá trị, mà điều quan trọng hơn nó còn là cội nguồn, cơ sở của các giá trị
truyền thống khác.
Trải qua bao biến thiên của lịch sử, lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường, lòng tự hào dân tộc sâu sắc vẫn tồn tại một cách bền
bỉ và tỏa sáng rạng rỡ, làm nên cốt cách dân tộc Việt Nam; đồng thời, được thử
thách và khẳng định, được bổ sung, phát triển qua từng thời kỳ theo yêu cầu
phát triển của dân tộc và thời đại, trở thành một trong những giá trị cao quý
và bền vững nhất của dân tộc ta. Đó là nguồn sức mạnh vô địch giúp cho dân tộc
ta vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thiên tai, địch hoạ, vững vàng tiến
lên phía trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng
nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả
lũ bán nước và lũ cướp nước”[1].
Trong điều kiện mới hiện nay, Đảng và Nhà nước ta
tiếp tục chủ trương “đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước” [2] để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, tinh thần
đoàn kết, ý thức cộng đồng dân
tộc.
Trong hoàn cảnh phải thường xuyên chống chọi với
thiên tai, với giặc ngoại xâm có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn hơn ta gấp nhiều
lần mà truyền thống đoàn kết, ý thức cộng đồng được hình thành, củng cố và phát
triển. Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là nguồn sức mạnh to lớn để dân tộc
ta đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm. Lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng, khi
nào dân tộc ta trên dưới đoàn kết một lòng thì dù kẻ thù có hùng mạnh đến đâu,
chúng ta cũng đánh thắng; ngược lại, khi nào chúng ta không thực hiện được đoàn
kết toàn dân, trong nội bộ có sự chia rẽ thì sức mạnh bị suy yếu, độc lập dân
tộc bị đe dọa. Thất bại của nhà Hồ trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đầu
thế kỷ XV là một minh chứng. Những trang sử hào hùng và vẻ vang của nhà Trần
chống quân Mông - Nguyên, của cả dân tộc ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược là minh chứng hùng hồn cho chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng
kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công.
Kế thừa truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh và động lực to lớn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Đại đoàn kết
toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và
nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3].
Thứ ba, lòng nhân ái, khoan dung, khát vọng hòa bình,
yêu hòa bình.
Nhân ái nghĩa là yêu thương con người. Lòng nhân ái được nảy nở và phát
triển chính trong cuộc sống lam lũ, khó khăn hàng ngày của nhân dân ta. Thực
tiễn cho thấy, hàng nghìn năm sống dưới ách thống trị của bọn phong kiến, thực
dân với chính sách nô dịch, cướp bóc cùng với bão lụt, hạn hán, mất mùa, dịch
bệnh… đã đè nặng lên cuộc sống, làm cho nhân dân ta vô cùng cực khổ. Họ cảm
thấy thương mình, thương những người cùng cảnh ngộ với mình và trong lúc khó
khăn, hoạn nạn ấy, chính tình yêu thương, đùm bọc, sẻ chia lẫn nhau đã giúp họ
vượt qua hoàn cảnh thực tại. Vì vậy, lòng yêu thương con người “Thương người
như thể thương thân”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ” từ lâu đã trở thành nếp
nghĩ, cách ứng xử, triết lý sống của con người Việt Nam, chi phối mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội.
Lòng nhân ái của người Việt Nam thấm đượm trong các mối quan hệ từ gia
đình, làng xóm đến cộng đồng xã hội. Trong gia đình, bố mẹ có trách nhiệm lo
cho con cái khi còn nhỏ, con cái phải biết vâng lời, chăm sóc bố mẹ. Với anh
chị em thì phải biết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau: “Anh em như thể chân tay”,
“Chị ngã, em nâng”… Trong quan hệ làng xóm: “Tối lửa tắt đèn có nhau”, “Bán anh
em xa, mua láng giềng gần”. Với những người trong cùng một nước thì luôn lấy
tình nghĩa để đối đãi: “Bầu ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng
chung một giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương - Người trong một nước phải
thương nhau cùng”...
Lòng nhân ái của dân tộc ta còn bao hàm cả lòng khoan dung, vị tha với
những kẻ lầm đường lạc lối, biết lấy công chuộc tội, trở về với chính nghĩa,
“mở đường hiếu sinh” với kẻ thù khi chúng đã bị thất bại. Lòng nhân ái của dân
tộc ta còn là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà bình và tình hữu nghị với các
dân tộc khác. Trong lịch sử, dân tộc ta bao giờ cũng giữ tình hoà hiếu với các
dân tộc khác, cố gắng tránh xảy ra xung đột dẫn đến cảnh “máu chảy, đầu rơi”,
tận dụng mọi cơ hội có thể có để giải quyết hoà bình mọi xung đột, cho dù
nguyên nhân xuất phát từ phía kẻ thù bên ngoài.
Tiếp nối truyền thống đó, hiện nay Đảng và nhà nước ta tiếp tục “... thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của
cộng đồng quốc tế” [4].
Bốn là, cần cù, lạc quan, khiêm tốn, giản dị, trung
thực.
Là một nước nông nghiệp, trong điều kiện lao động với những phương tiện sản
xuất thô sơ, thiên nhiên khắc nghiệt, hơn nữa các cuộc chiến tranh xâm lược và
sự thống trị của các thế lực bên ngoài đã phá hoại nền kinh tế, làm cho nền
kinh tế và đời sống của nhân dân bị kéo lùi hàng thế kỷ. Trong điều kiện hoàn
cảnh đó, truyền thống cần cù nảy nở, củng cố và phát triển. Cần cù vừa là điều
kiện để đảm bảo nhu cầu sống của con người, vừa thể hiện ý thức trách nhiệm của
người Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Hình ảnh “Ăn cơm bằng
đèn, đi cấy sáng trăng”, “Cày đồng đang buổi ban trưa”, hay “Tát nước đêm trăng”...
đã trở nên quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Đó không chỉ là những
hình ảnh đẹp, mà còn thể hiện đức tính cần cù, yêu lao động của nhân dân ta.
Mặc dù dân tộc ta luôn phải sống trong hoàn cảnh khó khăn vừa chống thiên
tai, vừa chống địch hoạ, nhưng vẫn luôn lạc quan, tin tưởng vào tương lai.
Chính sự lạc quan ấy đã giúp dân tộc ta vượt qua được những khó khăn, thách
thức tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Dân tộc Việt Nam cũng luôn tự hào
về đức tính khiêm tốn nhưng không hạ thấp mình; giản dị nên ghét thói xa hoa,
cầu kỳ, phô trương hình thức; trung thực nên ghét bỏ kẻ “lá mặt, lá trái”,
“tiền, hậu bất nhất”.
Năm là, dũng
cảm, bất khuất.
Có thể khẳng định, dân tộc Việt Nam anh hùng trước
hết vì trong mỗi con người Việt Nam đều có phẩm chất dũng cảm, kiên cường, bất
khuất. Lịch sử dân tộc Việt Nam ở thời kỳ nào cũng sáng ngời những tấm gương
dũng cảm, anh hùng, bất khuất, làm cho các thế lực xâm lược phải run sợ, nể
phục. Trần Bình Trọng - một danh tướng nhà Trần trong lúc anh dũng chiến đấu
không may bị giặc Mông - Nguyên bắt, khi chúng dụ dỗ quy hàng, ông đã thét to:
“Ta thà làm quỷ đất Nam còn hơn làm vương đất Bắc”; trước khi bị thực dân Pháp
hành hình, Nguyễn Trung Trực còn khảng khái: “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam
mới hết người Nam đánh Tây”; thời hiện đại, Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá
súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Tô Vĩnh Diện lấy thân mình
chèn pháo, Nguyễn Viết Xuân với tinh thần “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”... Chính
vì sự dũng cảm, bất khuất ấy mà dân tộc ta mới có thể chiến thắng thiên tai và
những kẻ thù lớn mạnh hơn nhiều lần.
Nhìn
lại lịch sử dân tộc chúng ta thấy rằng, các giá trị truyền thống tốt đẹp đã
thấm sâu vào máu thịt của con người Việt Nam qua các thế hệ và đó chính là sức
mạnh Việt Nam suốt nhiều thế kỷ. Trong đó, điểm nổi bật chiếm vị trí hàng đầu
và trở thành chuẩn mực đạo lý Việt Nam là tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc. Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng ta đã khơi dậy và
phát huy những giá trị truyền thống này trong suốt hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua. Ngày nay, những giá trị
truyền thống đó vẫn đang được tiếp nối và phát triển, trở thành sức mạnh tiềm
tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6,
Nxb. CTQG, H. 2002, tr. 171.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Sđd, tr. 158-159.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam , Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Sđd, tr. 158.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam,
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Sđd, tr. 153.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét