Thứ Ba, 5 tháng 3, 2019

ĐỌC TÁC PHẨM SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC CỦA HỒ CHÍ MINH

          Tháng 10 - 1947, trên đường cùng Trung ương Đảng trở lại chiến khu Việt Bắc để lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm "Sửa đối lối làm việc". Đây là tác phẩm quan trọng về xây dựng Đảng cầm quyền, có giá trị lịch sử và ý nghĩa lý luận, thực tiễn to lớn đối với Đảng, nhà nước và đội ngũ cán bộ, Đảng viên.

Tư tưởng chủ yếu của tác phẩm là: Phê phán chủ nghĩa cá nhân, vạch ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục. Khẳng định Đảng là lực lượng tiên phong, ưu tú nhất của giai cấp công nhân và toàn xã hội.
Chỉ ra những vấn đề rất cơ bản về Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, sửa đổi lối làm việc là nâng cao trình độ lý luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, nâng cao phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng, nâng cao năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Nội dung cơ bản của tác phẩm bao gồm những vấn đề sau:
* Tư cách của một Đảng chân chính cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát “tư cách của một Đảng chân chính cách mạng” trên 12 điều, thực chất là những vấn đề cơ bản về Đảng và xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Người căn dặn: “Muốn cho Đảng được vững bền, 12 điều ấy chớ quên điều nào”. Khảng định: Đảng phải  vừa là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành , tận tuỵ của nhân dân. Đảng phải được trang bị lý luận tiên phong. Lý luận phải luôn gắn liền với thực tiễn. Đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học. Đảng phải luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Đảng phải thường xuyên tự phê bình và phê bình. Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng phải có kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
* Về lãnh đạo và kiểm soát của Đảng
Về quy trình lãnh đạo của Đảng: Hồ Chí Minh khẳng định:
“Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng…
Phải tổ chức thi hành cho đúng…
Phải tổ chức kiểm soát cho đúng…”
Đây là những bước cơ bản trong quy trình lãnh đạo của Đảng. Người chỉ rõ, để thực hiện đúng quy trình đó, phải luôn giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, phải học hỏi quần chúng, vận động và tổ chức cho quần chúng trong hoạt động cách mạng và tham gia xây dựng Đảng. Giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân là nền tảng lực lượng, là nguồn sức mạnh to lớn của Đảng.
Về cách thức lãnh đạo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: “Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng”. Hồ Chí Minh còn giải thích rõ về hai cách lãnh đạo :
Liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng là bất kỳ công việc gì cũng đều phải có chính sách chung để động viên quần chúng trong hành động cách mạng. Song tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh, nhiệm vụ cụ thể mà lựa chọn một vài đơn vị, bộ phận. Chuẩn bị cho họ chu đáo, kỹ lưỡng. Tổ chức cho họ làm điểm, làm thử để rút kinh nghiệm. Sau đó mới làm rộng ra trong toàn Đảng. Đó là cách vừa lãnh đạo, vừa học tập.
Liên hợp người lãnh đạo với quần chúng là bất kỳ tổ chức nào, bất kỳ công việc gì cũng phải có một nhóm người hăng hái, trung kiên để lãnh đạo, để liên hệ mật thiết với quần chúng. Người kết luận: '' Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng'' .
Về kiểm soát của Đảng :
Hồ Chí Minh đề cập đến vai trò, tầm quan trọng của kiểm soát: Kiểm soát là một khâu rất quan trọng của quá trình lãnh đạo. Có kiểm soát thì mới biết nghị quyết của Đảng được thực hiện đến đâu? đúng hay không đúng? mới biết cán bộ tốt hay xấu, mới khắc phục được khuyết điểm, phát huy được ưu điểm. Người chỉ rõ: “Muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát”. “Kiểm soát khéo bao nhiêu khuyết điểm lòi hết”
Muốn kiểm soát có kết quả tốt, theo Hồ Chí Minh phải có hai điều kiện: “Một là việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người đi kiểm soát phải là những người rất có uy tín”
Hồ Chí Minh chỉ rõ có hai cách kiểm soát: cách thứ nhất, làm từ trên xuống: Người lãnh đạo kiểm soát những công việc của cán bộ mình; cách thứ hai, làm từ dưới lên: Quần chúng và cán bộ kiểm soát những sai lầm của người lãnh đạo và chỉ rõ những cách thức để sửa chữa sai lầm đó. Người coi đây là cách tốt nhất để kiểm soát cán bộ, đảng viên của Đảng.
* Tư cách và bổn phận đảng viên
Hồ Chí Minh chỉ ra 6 điểm về tư cách đảng viên và 6 điểm về bổn phận Đảng viên
Tư cách đảng viên: Thừa nhận chính sách của Đảng. Thực hành các nghị quyết của Đảng. Ra sức làm công việc Đảng, nộp đảng phí Những người trí thức, công dân, nông dân, phụ nữ, quân nhân hăng hái yêu nước, từ 18 tuổi trở lên đều được vào Đảng. Những người muốn vào Đảng phải có 2 đảng viên cũ giới thiệu. Những người bỏ Đảng phái khác mà vào Đảng, phải có ba người giới thiệu, và phải được cấp trên của Đảng chuẩn y. Những người rời khỏi Đảng đã lâu, mà có người làm chứng rằng, trong thời gian đó không hề làm việc gì có hại cho Đảng thì được trở lại làm đảng viên.
 Những người mới vào Đảng phải qua một thời kỳ dự bị: nông dân và công nhân hai tháng. Quân nhân ba tháng. Trí thức bốn tháng
Trong thời kỳ dự bị, Đảng phải dạy dỗ cho họ và trao việc cho họ làm. Đồng thời, Đảng phải xem xét tính nết, công tác và lịch sử của họ. Những người giới thiệu phải giúp họ học tập và công  tác.
Những người dự bị phải công tác cho Đảng và nộp đảng phí. Họ có quyền tham gia huấn luyện, đề ra ý kiến, bàn bạc các vấn đề, nhưng không được quyền biểu quyết. Họ cũng chưa có quyền giữ các trách nhiệm chỉ đạo như làm tổ trưởng, thư ký... (trong những hoàn cảnh đặc biệt, như nơi đó mới bắt đầu có Đảng, hoặc đại đa số đều là đảng viên mới thì không phải theo lệ này)
 Bổn phận đảng viên (6 bổn phận): Suốt đời đấu tranh cho dân tộc, cho Tổ quốc. Đặt lợi ích của cách mạng lên trên hết, lên trước hết. Hết sức giữ kỷ luật và giữ bí mật của Đảng. Kiên quyết thi hành những nghị quyết của Đảng. Cố gắng làm kiểu mẫu cho quần chúng trong mọi việc. Cố gắng học tập chính trị, quân sự, văn hoá. Phải gần gũi quần chúng, học hỏi quần chúng, cũng như phải lãnh đạo quần chúng.
* Rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
Rèn luyện đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh đề cập đến vai trò, tầm quan trọng của đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên. Đạo đức cách mạng là cái ''gốc'' cái '' căn bản'' của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng mới trở thành người cán bộ, đảng viên tốt. Mới làm tròn vai trò người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành, tận tuỵ của nhân dân. Người chỉ rõ: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,. Không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Hồ Chí Minh chỉ rõ, đạo đức cách mạng không phải là đạo đức thủ cựu, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại. Đó là đạo đức biết đặtlợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, là suốt đời phấn đấu hy sinh vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đó là nguyên tắc cao nhất, là tính Đảng của người cán bộ, đảng viên
Đạo đức cách mạng biểu hiện ở các đức tính: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. Người đòi hỏi : “Bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hoá, trí thức và chính trị của mình. Luôn luôn giữ gìn kỷ luật, luôn luôn xứng đáng một người cán bộ, một người đảng viên”
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
Điểm đặc sắc của Hồ Chí Minh trong ''Sửa đổi lối làm việc'' là gắn chặt việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng với quét sạch chủ nghĩa cá nhân, một căn bệnh dễ mắc phải của cán bộ, đảng viên. Nó làm thoái hoá biến chất  đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, làm cho Đảng suy yếu. Nếu không kịp thời phát hiện và kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, để cho nó lây ngấm dần vào cơ thể sống của Đảng, sẽ dẫn đến thoái hoá , biến chất Đảng. Thậm chí làm cho Đảng phân liệt, tan rã, mất vai trò lãnh đạo.
Hồ Chí Minh coi: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Đó là những bệnh : tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh bệnh cận thị, bệnh cá nhân, bệnh tị nạnh, bệnh xu nịnh, a dua.
Hồ Chí Minh chỉ ra cách chữa trị hiệu quả nhất đối với các căn bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình”
 Rèn luyện tính Đảng
Cách mạng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có tính đảng mới làm tròn nhiệm vụ mà Đảng, Tổ quốc và nhâ dân giao cho. Trong "sửa đổi lối làm việc" Hồ Chí Minh viết "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên". Người chỉ rõ, tính đảng của người cán bộ, đảng viên là luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Làm bất cứ công việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi, đến chốn. Lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với nhau.
Người xác định mười hai căn bệnh nguy hiểm mà cán bộ, đảng viên mắc phải vì kém tính đảng. Nếu : "Mắc phải một căn bệnh trong mười hai bệnh đó tức là hỏng việc”. Để sửa chữa cần: kiểm tra nghiêm ngặt, kiên quyết thực hiện nghị quyết của Đảng; tự phê bình và phê bình nghiêm túc, rõ ràng, thiết thực, ngay thẳng, chân thành, cốt để sửa chữa chứ không phải để công kích, cốt giúp nhau tiến bộ trưởng thành; kiên quyết chấp hành kỷ luật; chí công vô tư, cần kiệm, liêm chính.
* Về tự phê bình và phê bình trong Đảng
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tự phê bình và phê bình. Và đó cũng là vấn đề cơ bản xuyên suốt tác phẩm. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng cộng sản. Người khẳng định : "Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí của mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng  lợi"
Hồ Chí Minh quan niệm: Phê bình là nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của đồng chí mình; tự phê bình là nêu ưu điểm, vạch khuyết điểm của mình. Tự  phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích làm cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết, thống nhất nội bộ.
Người chỉ rõ những yêu cầu có tính nguyên tắc của tự phê bình và phê bình.
- Ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt.
- Chỉ rõ cả ưu điểm, khuyết điểm.
- Giữ đúng mục đích, không lợi dụng để đả kích, gây chia rẽ bè phái.
- Tự phê bình mình trước, phê bình người sau.
- Tự phê bình và phê bình phải có lý, có tình, trên tình đồng chí thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
- Sáng suốt, khôn khéo, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
- Tiến hành trong nội bộ đảng và phải vận động quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng.
- Phải có thái độ tiếp thu ý kiến phê bình đúng mực và có phương hướng sửa chữa sai lầm khuyết điểm.
* Vấn đề cán bộ
Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý vấn đề cán bộ của Đảng và Nhà nước. Người nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, cán bộ là nòng cốt của mọi tổ chức, là lực lượng chính trong xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối.
Người chỉ rõ nội dung, biện pháp xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ.

 Đào tạo bồi dưỡng cán bộ
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là “công việc gốc" của Đảng. "Đảng phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu”
- Nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, có tính thiết thực, phù hợp với chức trách nhiệm vụ của cán bộ. Đào tạo bồi dưỡng nghề nghiệp, chính trị, văn hoá, lý luận, cả đức và tài, trong đó lấy đức làm gốc. Người chỉ rõ nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cụ thể, sát hợp với đặc thù của từng lĩnh vực, từng ngành.
- Phương châm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, vững chắc, làm việc gì học việc ấy.
- Nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là lý luận gắn liền với thực tiễn, kinh nghiệm và thực tiễn phải luôn đi đôi với nhau.
Hiểu biết cán bộ
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải biết rõ cán bộ” muốn biết rõ cán bộ phải đánh giá đúng, xem xét một cách khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể. Phải từ hoạt động thực tiễn mà xem xét, đánh giá cán bộ. Tránh lối đánh giá thiếu công tâm, dân chủ hình thức. Người làm công tác cán bộ phải có đủ phẩm chất, năng lực, phải nghiêm túc tự phê bình những sai lầm khuyết điểm của mình, phải mẫu mực, trong sáng, vô tư, phải biết tự đánh giá chính mình.
 Khéo dùng cán bộ:
Hồ Chí Minh phê phán những sai lầm, khuyết điểm trong sử dụng cán bộ và chỉ rõ:
- Mục đích của dùng cán bộ: cốt để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ.
- Dùng cán bộ đúng là: Độ lượng, chí công vô tư, không thành kiến. Phải có tinh thần rộng rãi, gần gũi với cả người mình không ưa. Phải chịu khó giáo dục, bồi dưỡng cán bộ. Phải sáng suốt trong công tác cán bộ, phải có thái độ vui vẻ, thân mật.
Căn cứ vào công việc, tài năng, sở trường của cán bộ để bố trí, sắp xếp, đề bạt. Hồ Chí Minh chỉ rõ : “Phải dùng người đúng chỗ, đúng việc”
Bổ nhiệm, cất nhắc đúng lúc, đúng tầm.
Kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, cán bộ già với cán bộ trẻ.
Trọng dụng người tài và những người có ích cho công việc chung của Đảng (kể cả người ở trong Đảng và người ở ngoài Đảng).
Thương yêu, chăm sóc, bảo vệ cán bộ
Theo Hồ Chí Minh, đào tạo, bồi dưỡng để có được cán bộ tốt là một quá trình lâu dài. Đội ngũ cán bộ phải được tôi luyện trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên, quá trình hoạt động thực tiễn, cán bộ, đảng viên khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm, nếu không được phát hiện, sửa chữa kịp thời sẽ dẫn đến thoái hoá, biến chất. Vì vậy Người yêu cầu : “Đảng phải thương yêu cán bộ”. Thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp họ học tập, công tác, tu dưỡng, rèn luyện tốt. Giúp họ giải quyết những vấn đề khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. Luôn chú ý đến công tác của cán bộ, giúp họ sửa chữa khuyết điểm, phát huy ưu điểm. Quan tâm đến cuộc sống riêng và hậu phương gia đình cán bộ.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, ai cũng có sai lầm, khuyết điểm, có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ mọi người không cố gắng sửa chữa và người lãnh đạo không biết tìm cách giúp cán bộ sửa chữa, khuyết điểm. Với những cán bộ sai lầm, Người yêu cầu:
- Phải phê bình cho đúng. Phải có thái độ nghiêm túc, thân thiết để giúp cán bộ nhận thức rõ nguyên nhân, tác hại và chỉ cho họ cách sửa chữa. Phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của cán bộ trong sửa chữa sai lầm, khuyết điểm.
- Người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước những sai lầm của cán bộ mình.
- Chủ yếu sử dụng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm hoá cán bộ. Song cần phân tích rõ ràng, cụ thể đúng, sai, xem xét kỹ lưỡng công việc của họ mà sử dụng biện pháp hành chính cho phù hợp. Người viết: "Sửa chữa sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. nếu nhất luận  không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt là không đúng” (1)
“Sửa đổi lối làm việc” là những bài học kinh nghiệm quý báu được tổng kết từ thực tiễn đấu tranh cách mạng gian khổ, vẻ vang của Đảng ta. Toàn bộ tác phẩm thể hiện rõ một hệ thống những nguyên lý cơ bản về Đảng và xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện Đảng cầm quyền; trang bị tri thức, nâng cao trình độ tư tưởng lý luận, tình cảm cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối lãnh đạo và tác phong công tác của Đảng, của cán bộ đảng viên.
 "Sửa đổi lối làm việc” là tài liệu đặc biệt quan trọng, hướng dẫn về phương pháp tiến hành các mặt công tác chủ yếu của công tác xây dựng đảng: công tác vận động quần chúng của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng, cách lãnh đạo và kiểm soát, công tác cán bộ của Đảng… Góp phần đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền, xây dựng hệ thống chính trị hiện nay vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
 "Sửa đổi lối làm việc” là một trong những di sản quý báu của tư tưởng Hồ Chí Minh, một đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận Mác-Lênin, là tài sản tinh thần vô cùng quý giá của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
"Sửa đổi lối làm việc" góp phần quan trọng vào việc tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận về Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh (1947), toàn tập, NXB C.T.Q.G Hà Nội, 1995,
Tập 5, trang 229 ¸ 306




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét