Kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam là sự tuân thủ
nghiêm ngặt và chính xác Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước; điều lệnh, điều lệ,
chế độ quy định của quân đội; mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên nhằm bảo đảm cho
mọi hoạt động của quân đội, từng đơn vị trên các lĩnh vực được chỉ huy, điều
hành thống nhất, thông suốt.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một tổ chức quân sự mang
bản chất giai cấp công nhân, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, bản chất kỷ luật của quân đội ta mang
bản chất kỷ luật của Đảng và của giai cấp công nhân. Đó là kỷ luật sắt, tự
giác, nghiêm minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Kỷ luật của ta là kỷ luật sắt,
nghĩa là nghiêm túc và tự giác”[1].
Kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam khác hẳn về chất
so với kỷ luật của quân đội tư sản. Trong quân đội tư sản họ cũng nói đến kỷ luật, nhưng là
thứ kỷ luật chủ yếu dựa trên sự cưỡng chế, buộc binh sĩ phải phục tùng và để
duy trì, giữ vững kỷ luật đó, người ta phải sử dụng nhiều hình thức như phạt nặng,
dùng cực hình, kích động hoặc dùng mê tín, tôn giáo... Kỷ luật trong quân đội
tư sản được xây dựng trên cơ sở pháp luật tư sản với một hệ thống thiết chế
nhằm giữ vững sự thống trị của giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản và vì giai
cấp tư sản.
Bản
chất kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam được biểu hiện:
Kỷ luật của Quân đội nhân dân Việt Nam là kỷ luật tự giác, bắt nguồn từ sự giác ngộ sâu sắc của mọi quân nhân về nhiệm vụ của cách
mạng, quân đội và đơn vị, về mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội; thể
hiện ở nhận thức đúng, quyết tâm hành động đúng của quân nhân trong chấp hành
kỷ luật ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi nhiệm vụ, hoàn cảnh. Khi mỗi quân nhân ý
thức được việc chấp hành kỷ luật là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; có
ý thức cao trong việc chấp hành kỷ luật, tự ghép mình vào khuôn khổ tổ chức, kỷ
luật của đơn vị; trở thành nếp nghĩ, cách sống thường trực, thành thói quen,
nhu cầu hàng ngày của mỗi quân nhân và toàn đơn vị; nhận thức sâu sắc ý nghĩa
và giá trị của kỷ luật đối với việc nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội
thì việc chấp hành kỷ luật trở thành tự giác.
Kỷ luật của quân đội ta là
nghiêm minh,
được hình thành và phát triển trên cơ sở mọi quân nhân có nhận thức, hiểu biết
sâu sắc, sự nhất trí, lòng tin tưởng tuyệt đối vào Hiến pháp, pháp luật của Nhà
nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội và hành vi tự giác chấp hành nghiêm pháp
luật, kỷ luật; thể hiện ở sự đòi hỏi, bắt buộc đối với mọi quân nhân, không
phân biệt cấp bậc, chức vụ, giới tính, lứa tuổi... đều phải chấp hành vô điều
kiện pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; ở việc xử phạt nghiêm khắc đối với
các hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật và cưỡng bức, bắt buộc đối với các quân
nhân không tự giác chấp hành.
Tính tự giác và nghiêm minh
của kỷ luật quân đội ta là thống nhất, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Có tự giác mới giữ nghiêm
kỷ luật; nếu chỉ nhấn mạnh đến tính tự giác mà không thấy tính chặt chẽ, nghiêm
minh của kỷ luật thì sẽ dẫn đến tự do, tùy tiện; nếu coi nhẹ tính tự giác, chỉ
thấy nghiêm minh thì sự nghiêm minh ấy rất có thể biến thành hình thức, quan
liêu, quân phiệt. Tính tự giác và nghiêm minh là biểu hiện cao nhất của tính kỷ
luật của quân đội Quân đội nhân dân Việt Nam,
được hình thành và phát triển cùng với sự ra đời, xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành của quân đội ta qua các thời kỳ. Đó là một phẩm chất cao đẹp trong phẩm
chất nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ” - phẩm chất đặc trưng của người quân nhân cách
mạng; là thước đo trình độ giác ngộ chính trị, chuẩn mực về nhân cách, đạo đức,
mục tiêu rèn luyện để trở thành người quân nhân cách mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét