SƠ LƯỢC VỀ
LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
VÀ CÔNG ƯỚC
CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN 1982
1. Khái niệm
pháp luật quốc tế về biển
Không gian mà
con người sinh sống trên trái đất chủ yếu gồm ba phần: đất, biển, trời.
Lãnh thổ quốc
gia trên đất liền, bao gồm đất liền, đảo, sông, suối, hồ nội địa, vùng trời
phía trên và lòng đất bên dưới nằm trong phạm vi các đường biên giới quốc gia
xác định qua thực tế quản lý hay điều ước quốc tế. Đường biên giới trên đất
liền về cơ bản được coi là bền vững và bất khả xâm phạm mặc dù trên thực tế vẫn
đang luôn luôn diễn ra các loại tranh chấp và có sự biến động đường biên giới
giữa nhiều quốc gia.
Giới hạn về độ
cao của vùng trời thuộc lãnh thổ quốc gia cũng như độ sâu của lòng đất bên dưới
tuy không được xác định rõ rệt chính xác bao nhiêu cây số nhưng với khả năng kỹ
thuật của nhân loại hiện nay, mỗi quốc gia hoàn toàn có thể thực hiện chủ quyền
của mình trong những phạm vi nhất định tới giới hạn tối đa là vành đai khí
quyển nằm dưới quỹ đạo địa tĩnh và tới độ sâu cho phép thuộc bề dày của vỏ trái
đất ở bên dưới phần lãnh thổ của mình.
Riêng với vùng
biển, trong thời gian gần đây có rất nhiều sự thay đổi về chất đối với phạm vi
và chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc một nước ven biển cũng như vùng biển
thuộc về đại dương cũng như phần đáy và lòng đất dưới đáy đại dương không thuộc
bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên, biển vẫn còn tồn tại một nguyên tắc cơ bản
của Luật biển là có đất (bờ biển) mới có biển. Có thể thấy các thay đổi và phát
triển của Luật biển diễn ra theo một tiến trình ba bước cơ bản sau:
- Từ xa xưa cho
đến tận giữa thế kỷ XX, các nước ven biển chỉ có vùng biển hẹp (lãnh hải) thuộc
chủ quyền rộng 3 hải lý (mỗi hải lý bằng l.852 m). Phía ngoài ranh giới lãnh
hải 3 hải lý đều là biển công, ở đó mọi cá nhân, tổ chức, tàu thuyền của mỗi
nước được hưởng quyền tự do biển cả. Hầu như không ai chia biển với ai cả,
đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các nước thường được hình thành và tôn
trọng theo tập quán.
- Từ năm 1958
đến năm 1994, các nước ven biển có lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải rộng
không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài dưới biển ra không quá độ
sâu 200 m nước (theo các công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1958). Các
nước láng giềng, kế cận hay đối diện nhau, căn cứ vào luật, tự mình quy định
phạm vi hoặc ranh giới vùng biển quốc gia, dẫn đến hậu quả có sự chồng lấn và
tranh chấp về biển. Luật biển quốc tế lúc đó quy định các nước có vùng chồng
lấn phải cùng nhau giải quyết vạch đường biên giới biển (bao gồm biên giới biển
trong lãnh hải, ranh giới biển trong vùng tiếp giáp và thềm lục địa) trong vùng
chồng lấn. Nguyên tắc hoạch định biên giới biển lúc đó là qua thương lượng trên
cơ sở pháp luật quốc tế và thường áp dụng nguyên tắc đường trung tuyến.
- Từ năm 1994 đến nay, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển mới được
các nước ký kết vào năm 1982 (Công ước 1982), phê chuẩn ngày 16/11/1994 và bắt
đầu có hiệu lực pháp luật quốc tế. Nước ta phê chuẩn Công ước 1982 vào năm
1994. Theo Công ước này, một nước ven biển có năm vùng biển: nội thủy, lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa. Với sự
ra đời của Công ước 1982, trên thế giới các nước sẽ phải cùng nhau vạch khoảng
412 đường ranh giới mới trên biển.
Như vậy, theo
Công ước 1982, phạm vi vùng biển của nước ta được mở rộng ra một cách đáng kể,
từ vài chục nghìn km2 lên đến gần một triệu km2 với năm
vùng biển có phạm vi và chế độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam không còn thuần
tuý có hình dạng hình chữ ''S'' nữa mà mở rộng ra hướng biển, không chỉ có biên
giới biển chung với Trung Quốc, Campuchia mà cả với hầu hết các nước trong khu
vực Đông Nam Á như Philíppin, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan.
Nội thủy: Là
vùng biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng
nước thuộc nội thủy có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên đất liền.
Lãnh hải: Là
vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lý tương
tự như lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia
trên biển. Trong lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền
qua lại không gây hại và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông biển của
nước ven biển.
Vùng tiếp giáp:
Là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải.
Trong vùng tiếp giáp, nước ven biển có quyền quy định biện pháp ngăn ngừa và
trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về nhập cư, thuế khóa, y tế xảy
ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
Vùng đặc quyền
kinh tế: Là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (trừ lãnh hải thì
chiều rộng là 188 hải lý). Trong vùng biển này, nước ven biển có quyền chủ
quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm
khai thác, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các
hoạt động nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt các
công trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng
hải và đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.
Thềm lục địa: Là
vùng đáy và lòng đất đáy biển nằm bên ngoài lãnh hảỉ của nước ven biển trên phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc
tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải khi bờ ngoài của rìa lục
địa ở khoảng cách gần hơn. Tuy nhiên, bề rộng tối đa của thềm lục địa tính theo
bờ ngoài của rìa lục địa dù thế nào cũng không được vượt quá giới hạn 350 hải
lý tính từ đường cơ sở lãnh hải, hoặc không quá 100 hải lý bên ngoài đường đẳng
sâu 2.500 m. Đối với thềm lục địa, nước ven biển có quyền chủ quyền và quyền
tài phán quốc gia tương tự như trong vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, quyền
chủ quyền của nước ven biển trên thềm lục địa là đương nhiên, không phụ thuộc
vào việc có tuyên bố hay không.
2. Nguồn của
Luật biển quốc tế
Nguồn lịch sử:
Văn kiện phân chia biển đầu tiên đó là Sắc chỉ ''Inter Coetera'' của Giáo hoàng
Alexandre VI ngày 04/5/1493. Đường chia của Giáo hoàng cách phía Tây của đảo
Vert 100 liên (một liên tương đương 182 m), phân đại dương thành hai khu vực
ảnh hưởng cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Thực chất đó là đường phân chia
khu vực truyền đạo của hai quốc gia này đã nhanh chóng chuyển thành khu vực ảnh
hưởng của họ.
Năm 1609, Hugo
Grotius viết cuốn ''Mare Liberum'' để biện minh cho các quyền tự do trên biển.
Tư tưởng này được các quốc gia tư bản mới hoan nghênh vì nó tạo sức cạnh tranh
với sự phân chia trên, tạo điều kiện cho các quốc gia hàng hải khác như Hà Lan,
Anh... phát triển. Năm 1635, luật gia người Anh - John Selden đáp lại bằng cuốn
sách ''Mare Clausum'', khẳng định quyền của vua Anh thực hiện chủ quyền trên
các vùng biển bao quanh nước Anh. Tuy nhiên, nguyên tắc tự do trên biển đã
thắng thế.
Nguồn hiện đại:
Có bốn hội nghị quốc tế được coi là nguồn của luật biển hiện đại.
- Hội nghị pháp
điển hoá luật quốc tế La Haye 1930 đạt được hai thắng lợi: công nhận các quốc gia
có một lãnh hải rộng ít nhất ba hải lý và một vùng tiếp giáp lãnh hải.
- Hội nghị lần
thứ nhất của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1958 tại Giơnevơ đã cho ra đời bốn
công ước:
1. Công ước về
lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải (có hiệu lực từ ngày 10/9/1964, 48 quốc gia
là thành viên);
2. Công ước về
biển cả (có hiệu lực từ ngày 30/9/1962, 59 quốc gia là thành viên);
3. Công ước về
đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật của biển cả (có hiệu lực từ ngày
20/3/1966, 36 quốc gia là thành viên);
4. Công ước về
thềm lục địa (có hiệu lực từ ngày 10/6/1964, 54 quốc gia là thành viên).
Các công ước này
đã pháp điển hoá rất nhiều các nguyên tắc tập quán và đã đưa ra nhiều khái niệm
mới (như thềm lục địa). Nhưng công ước này thất bại trong việc thống nhất bề
rộng lãnh hải (các quốc gia yêu sách tới năm loại bề rộng lãnh hải khác nhau)
và trong việc xác định ranh giới của thềm lục địa.
- Hội nghị lần
thứ hai của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1960 tại Giơnevơ về bề rộng lãnh
hải. Hội nghị này không đưa ra được một kết quả khả quan nào.
- Hội nghị lần
thứ ba của Liên Hợp quốc về Luật biển, họp từ năm 1974 đến năm 1982, phản ánh
bước phát triển tiến bộ mới của Luật biển và đã làm thay đổi cơ bản trật tự
pháp lý cũ về biển. Cộng đồng quốc tế đã thừa nhận một nguyên tắc mới do Đại sứ
Malta đưa ra tại phiên họp thứ 22 Đại hội đồng Liên Hợp quốc ngày 17/8/1967,
coi vùng biển nằm ngoài vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại. Kenya
đã đưa ra sáng kiến thành lập vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý.
Một loạt các quy
phạm mới được bổ sung vào dự thảo công ước. Sau chín năm đàm phán gay go qua 11
khoá họp, dự thảo công ước đã được thông qua với 130 phiếu. Văn bản cuối cùng
được ký kết tại Montego - Bay ngày 10/12/1982 bởi 117 quốc gia và thực thể,
trong đó có Việt Nam .
Với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục, Công ước này thực sự là một bản hiến
pháp mới về biển của cộng đồng quốc tế. Mỹ và số đông các nước công nghiệp phát
triển, trừ Pháp, không ký kết và phản đối Phần XI của Công ước về chế độ quản
lý và khai thác đối với khu vực đáy đại đương được coi là tài sản chung của
nhân loại, đặc biệt là thể thức điều hành của Cơ quan quyền lực Đáy đại dương.
Công ước có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Để Công ước thực sự có tính phổ thông,
tạo điều kiện cho các cường quốc tham gia, theo sáng kiến của Tổng Thư ký Liên
Hợp quốc, một thoả thuận mới đã được ký kết vào ngày 29/7/1994 cho phép thay
đổi nội dung của Phần XI của Công ước. Đến nay Công ước đã có hơn 130 nước phê
chuẩn.
Có thể hình dung
chế độ pháp lý về các vùng biển theo luật biển mới gồm hai khu vực: (a) Các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển nằm tiếp giáp
với lãnh thổ các quốc gia ven biển; và (b) Khu vực theo chế độ pháp lý biển cả,
trong đó quyền khai thác tài nguyên phi sinh vật được đặt dưới quyền quản lý
của Cơ quan quyền lực Đáy đại dương và các nước được hưởng quyền tự do biển cả.
3. Chế độ pháp
lý của các vùng biển tiếp giáp lãnh thổ quốc gia ven biển
a. Vùng nước nội thủy
Vùng nước nội
thủy là vùng nước nằm phía bên trong của đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và
đầy đủ như trên lãnh thổ đất liền. Tuy nhiên, chủ
quyền của quốc gia ven biển đối với nội thủy vẫn có sự khác biệt so với chủ
quyền trên lãnh thổ đất liền, vì quốc gia ven biển thực hiện quyền lực của mình
trên vùng nước nội thủy không phải đối với các cá nhân mà là đối với tàu thuyền
- cộng đồng có tổ chức và đáp ứng các quy tắc riêng biệt.
Vùng nước nội
thủy bao gồm: các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa sông, các vịnh, các
vùng nước nằm giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải.
Các vấn đề cần
chú ý trong vùng nước nội thủy:
- Quyền được tự
do thông thương của tàu thuyền thương mại vào các cảng biển quốc tế và các quy
định đối với tàu thuyền nước ngoài;
- Thẩm quyền tài
phán dân sự;
- Thẩm quyền tài
phán hình sự.
b. Lãnh hải
Lãnh hải là vùng
biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở lãnh hải của nước ven biển.
Trong lãnh hải
có năm nội dung cần chú ý:
- Bản chất pháp
lý của lãnh hải;
- Chiều rộng
lãnh hải;
- Đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải;
- Quyền đi qua
không gây hại;
- Vấn đề phân
định lãnh hảl.
Bản chất pháp
lý: Thuật ngữ lãnh hải là sự kết hợp thành công giữa hai từ lãnh thổ và biển.
Lãnh hải là một vùng biển đệm giữa một bên là lãnh thổ do quốc gia ven biển
thực hiện chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ, ngoại trừ quyền “đi qua không gây hại”
của tàu thuyền nước ngoài theo nguyên tắc tự do hàng hải.
Luật biển coi
lãnh hải như một ''lãnh thổ chìm'', một bộ phận hữu cơ của lãnh thổ quốc gia,
trên đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt về phòng thủ quốc
gia, về cảnh sát, thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên thiên nhiên, đấu
tranh chống ô nhiễm, như quốc gia đó tiến hành trên lãnh thổ của mình. Các Điều
2 của Công ước Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp, cũng như Điều 2
của Công ước năm 1982 của Liên Hợp quốc về Luật biển ghi rõ: ''Chủ quyền của
quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình,... đến
một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải''. Tuy nhiên, việc đồng hóa lãnh hải
thành lãnh thổ không phải là tuyệt đối. Chủ quyền giành cho quốc gia ven biển
trên lãnh hải không phải là tuyệt đối như trên các vùng nước nội thủy, do sự
thừa nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải.
Chiều rộng lãnh
hải: Hai hội nghị đầu tiên của Liên Hợp quốc về Luật biển đã thất bại trong
việc thống nhất hoá chiều rộng lãnh hải. Trước khi có Công ước Luật biển năm
1982, tập quán chung áp dụng chiều rộng lãnh hải là ba hải lý. Sau này, Điều 3
của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 đã thống nhất rằng, quốc
gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải không vượt quá 12 hải lý tính
từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Tới năm 1994 đã có 116 nước
tuyên bố lãnh hải rộng 12 hải lý.
Đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải: Việc xác định bề rộng thực tế và ranh giới ngoài
của lãnh hải phụ thuộc vào việc vạch đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải. Thông thường đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải được căn theo ngấn
nước thủy triều thấp nhất. Các đảo cách ven bờ có thể được chọn làm điểm cơ sở
để vạch đuờng cơ sở lãnh hải. Đường cơ sở lãnh hải là ranh giới trong của lãnh
hải.
Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 quy định, đường cơ sở thông thường dùng để
tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển. Công
ước cũng đưa ra ba điều kiện để áp dụng phương pháp đường cơ sở thẳng, đó là: ở
những nơi bờ biển khúc khuỷu, bị khoét sâu và lồi lõm; ở những nơi có một chuỗi
đảo chạy qua; ở những nơi có các điều kiện thiên nhiên đặc biệt gây ra sự không
ổn định của bờ biển như sự hiện diện của các châu thổ. Nhưng đường cơ sở thẳng
vạch ra này phải đi theo xu hướng chung của bờ biển và không được cách xa bờ.
Như vậy, ranh
giới ngoài của lãnh hải là đường chạy song song với đường cơ sở và cách đều
đường cơ sở một khoảng cách tối đa là 12 hải lý. Ranh giới ngoài của lãnh hải
được coi là đường biên giới quốc gia trên biển.
Quyền đi qua
không gây hại: Là một nguyên tắc tập quán của luật quốc tế, được thừa nhận bằng
thực tiễn của các quốc gia. Công ước Giơnevơ 1958 đã pháp điển hoá quyền đi qua
không gây hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển cho tàu thuyền nước ngoài.
Công ước cũng gián tiếp công nhận quyền đi qua không gây hại cho tàu thuyền
quân sự nước ngoài, vì nó có điều khoản cho phép quốc gia ven biển được yêu cầu
tàu thuyền quân sự nước ngoài rời khỏi lãnh hải của mình trong trường hợp các
tàu này vi phạm luật lệ của quốc gia ven biển. Công ước của Liên Hợp quốc về
Luật biển năm 1982 chỉ nhắc lại nội dung này. Điều 30 của Công ước quy định
rằng, nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven
biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân
thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có
thể yêu cầu chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức. Tàu ngầm thực hiện
quyền đi qua không gây hại phải đi ở trạng thái nổi và phải treo cờ quốc tịch.
Nghĩa của thuật
ngữ ''đi qua'': Đi qua lãnh hải có nghĩa và bao gồm cả việc đi qua lãnh hải mà
không vào nội thủy, hoặc đi qua lãnh hải để vào nội thủy hoặc cảng và rời nội
thủy ra biển. Công ước Luật biển năm 1982, Điều 18 khoản 2 bổ sung thêm việc đi
qua phải là liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua có thể bao gồm cả
việc dừng lại và thả neo, trong trường hợp gặp những sự cố thông thường về hàng
hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp
người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn.
Nghĩa của thuật
ngữ “đi qua không gây hại”:
* Các loại tàu
thuyền nước ngoài được quyền đi qua lãnh hải của quốc gia ven biển mà không cần
phải xin phép trước.
* Việc đi qua
này là hành trình liên tục và không gây hại, không xâm phạm tới chủ quyền, an
ninh, lợi ích của quốc gia ven biển. Theo Điều 19 của Công ước Luật biển năm
1982, tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh
hải không được tiến hành một hoặc bất kỳ hoạt động nào sau đây:
- Đe dọa hoặc
dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của
quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của luật pháp
quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc;
- Luyện tập hoặc
diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;
- Thu thập tình
báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
- Tuyên truyền
nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;
- Phóng đi, tiếp
nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
- Phóng đi, tiếp
nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;
- Xếp hoặc dỡ
hàng hoá, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về
hải quan, thuế khoá, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;
- Gây ô nhiễm cố
ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
- Đánh bắt hải
sản;
- Nghiên cứu hay
đo đạc;
- Làm rối loạn
hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công
trình khác của quốc gia ven biển;
- Mọi hoạt động
khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.
Ngoài ra, quốc
gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các
luồng giao thông dành cho tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình (Điều
21, 22 của Công ước).
Tàu thuyền nước
ngoài phải tuân thủ luật pháp của quốc gia ven biển về:
- An toàn hàng
hải, điều phối giao thông đường biển;
- Bảo vệ các
thiết bị công trình, dây cáp, ống dẫn ở biển;
- Bảo tồn tài
nguyên sinh vật biển, giữ gìn môi trường biển;
- Hải quan, thuế
khoá, y tế, nhập cư.
Tóm lại, luật
biển quốc tế và cụ thể là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 ghi
nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền của các nước trong phạm vi lãnh
hải của các quốc gia ven biển. Mặt khác, Công ước Luật biển cũng thừa nhận
quyền của quốc gia ven biển bằng luật quốc gia quy định cụ thể chế độ pháp lý
điều chỉnh hoạt động của tàu thuyền nước ngoài khi đi qua lãnh hải nhằm đảm bảo
chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.
c. Vùng tiếp
giáp lãnh hải.
Vùng tiếp giáp
lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc
gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các
tàu thuyền nước ngoài. Phạm vi của vùng tiếp giáp không vượt quá 24 hải lý tính
từ đường cơ sở.
Công ước về lãnh
hải và vùng tiếp giáp năm 1958, Điều 24 quy định quốc gia ven biển có quyền
tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết tại vùng tiếp giáp, nhằm:
- Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế
khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
- Trừng trị
những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hoặc
trong lãnh hải của mình.
Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, Điều 33 nhắc lại nội dung trên nhưng cần
lưu ý, về bản chất pháp lý, vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định bởi Công ước
năm 1958 là một phần của biển cả. Còn vùng tiếp giáp lãnh hải được quy định bởi
Công ước năm 1982 nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (sẽ xem xét sau), có quy chế
của một vùng sui generic (đặc biệt), không phải là một vùng biển thuộc
chủ quyền quốc gia và cũng không phải là vùng biển có quy chế tự do biển cả.
Trong vùng tiếp
giáp lãnh hải, Điều 303, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, đã
mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện vật có tính lịch sử và
khảo cổ. Mọi sự trục vớt các hiện vật này từ đáy biển thuộc vùng tiếp giáp lãnh
hải mà không được phép của quốc gia ven biển, đều được coi là vi phạm xảy ra
trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia đó.
d. Các Vịnh
Có ba loại vịnh:
- Vịnh do bờ
biển của một quốc gia bao bọc. Điều 7 của Công ước năm 1958 và Điều 10 của Công
ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 định nghĩa vịnh là một vùng lõm sâu
rõ rệt vào đất liền mà chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài
cửa của nó đến mức là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng đó
lõm sâu hơn là một sự uốn cong của bờ biển. Tuy nhiên, vùng lõm đó chỉ được coi
là một vịnh nếu thoả mãn hai điều kiện:
+ Diện tích của
vịnh ít nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng
kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm. Theo Điều 10 khoản 3, diện tích của một vùng
lõm được tính giữa ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển của vùng lõm và
đường thẳng nối liền các ngấn nước triều thấp nhất ở các điểm của cửa vào tự
nhiên. Nếu do có các đảo mà một vùng lõm có nhiều cửa vào thì nửa hình tròn nói
trên có đường kính bằng tổng số chiều dài các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào
đó;
+ Đường khép cửa
vào tự nhiên của cửa vịnh không vượt quá 24 hải lý. Trong trường hợp ngược lại,
thì cần phải vạch các đoạn cơ sở thẳng dài 24 hải lý ở phía trong cửa vịnh sao
cho phía trong của nó có một diện tích tối đa;
- Vịnh do bờ
biển của nhiều quốc gia bao bọc: mỗi quốc gia quy định lãnh hải của mình trong
vịnh. Các quốc gia có thể, bằng con đường thoả thuận hoặc do toà án, công nhận chế
độ đồng sở hữu vịnh.
- Vịnh lịch sử:
một vịnh được coi là lịch sử, căn cứ vào tập quán và các phán quyết của toà án
và trọng tài quốc tế phải thoả mãn ba điều kiện:
+ Thực hiện chủ
quyền một cách thực sự của quốc gia ven biển;
+ Thực hiện việc
sử dụng vùng biển này một cách liên tục, hoà bình và lâu dài;
+ Có sự chấp
nhận, công khai hoặc sự im lặng không phản đối của các quốc gia khác, nhất là
các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này.
e. Vùng đặc
quyền kinh tế.
Là vùng biển nằm
ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới một chế độ pháp lý
riêng, theo đó các quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng
như các quyền và các quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định
thích hợp của Công ước điều chỉnh.
Vùng đặc quyền
kinh tế có chiều rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải.
Bản chất pháp
lý: Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý mới, riêng biệt, lần đầu
tiên được ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982. Vùng
đặc quyền kinh tế là một vùng sui generic, trong đó quốc gia ven biển
thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế, được quy định
bởi Công ước, mà không chia sẻ với các quốc gia khác. Tuy nhiên, so với thềm
lục địa, vùng đặc quyền kinh tế không tồn tại ipso facto and ab initio; do
đó quốc gia ven biển phải yêu sách vùng này bằng một tuyên bố đơn phương.
Chế độ pháp lý: Trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có:
* Các quyền
thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên
thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm
dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ
nước, hải lưu và gió.
* Quyền tài phán
theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử
dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu
khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển.
* Các quyền và
nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Trong vùng đặc
quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, đều được
hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp và ống
dẫn ngầm, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về
mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với
các quy định khác của Công ước, nhất là trong khuôn khổ việc khai thác các tàu
thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.
Quốc gia ven
biển quản lý các tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế:
- Đối với các
tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc cho phép quốc
gia khác khai thác cho mình, đặt dưới quyền kiểm soát của mình;
- Đối với các
tài nguyên sinh vật, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng có thể đánh
bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc khai thác các tài
nguyên sinh vật biển và ấn định số dư của quốc gia ven biển cho phép các quốc
gia khác, thông qua các điều ước hoặc những thoả thuận liên quan, khai thác số
dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các quốc gia không có
biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
Ngoài ra, quốc
gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản
lý, nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh
tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Công ước Luật biển năm 1982
có ghi nhận một loạt điều khoản cụ thể quy định các quyền và nghĩa vụ của các
quốc gia ven biển và các quốc gia khác trong việc bảo tồn các loài sinh vật
biển cụ thể như: các loài cá di cư xa; các loài có vú ở biển; các đàn cá vào
sông sinh sản; các loài cá ra biển sinh sản; các loài định cư.
g. Thềm lục địa.
Định nghĩa và
ranh giới thềm lục địa
Công ước Giơnevơ
năm 1958 về thềm lục địa định nghĩa thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần kéo dài
tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này và có ranh giới ngoài được xác
định bởi hai tiêu chuẩn:
- Tiêu chuẩn độ
sâu: 200 m - một tiêu chuẩn ấn định;
- Tiêu chuẩn khả năng khai thác - một tiêu chuẩn động, mâu thuẫn với
tiêu chuẩn trên và chỉ phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật khai thác thềm lục địa
của quốc gia ven biển. Nó tạo ra sự bất bình đẳng giữa các quốc gia.
Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 định nghĩa thềm lục địa là vùng đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia ven biển, trên phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho đến bờ ngoài của
rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải
lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách gần hơn. Trong
trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự
nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở; quốc gia ven biển
này có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới một khoảng
cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách đường đẳng sâu
2.500 m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều kiện tuân
thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa trong
Công ước Luật biển năm 1982 và phù hợp với các kiến nghị của Uỷ ban Ranh giới
thềm lục địa được thành lập trên cơ sở Phụ lục II của Công ước.
Chế độ pháp lý
của thềm lục địa
- Quốc gia ven
biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và
khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình;
- Những quyền
chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa của mình là những đặc
quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển này không thăm dò thềm lục địa hay không
khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa (bao gồm các tài nguyên không
sinh vật và các tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư), thì không ai có quyền
tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự thoả thuận rõ ràng của các
quốc gia đó;
- Các quyền của
quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự
hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào. Các quyền này tồn tại
một cách ipso facto and ab initio.
- Tất cả các
quốc gia đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Quốc
gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải thoả thuận với quốc gia ven biển về tuyến
đường đi của ống dẫn hoặc cáp;
- Khi quốc gia
ven biển tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải thì phải có một khoản đóng góp theo quy định
của Công ước;
- Các quyền của
quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của
vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước này;
- Việc quốc gia
ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt
hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được
Công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực hiện các quyền này một
cách không thể biện bạch được;
- Quốc gia ven
biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục
đích gì.
4. Chế độ pháp
lý của các vùng biển nằm ngoài phạm vi chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia
ven biển
a. Biển cả: Là vùng biển nằm ngoài các vùng biển
thuộc phạm vi chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển.
Thuật ngữ biển cả chỉ áp dụng với cột nước bên trên đáy và lòng đất đáy đại
dương.
Biển cả được để
ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là những quốc gia có biển hay không có biển.
Trong vùng biển này, tất cả các quốc gia đều được hưởng các tự do, như:
- Tự do hàng
hải;
- Tự do hàng
không;
- Tự do đặt các
dây cáp và ống dẫn ngầm;
- Tự do xây dựng
các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép;
- Tự do đánh bắt
hải sản;
- Tự do nghiên
cứu khoa học...
Các quốc gia
thực hiện các quyền tự do biển cả trên cơ sở tôn trọng và lưu ý tới lợi ích của
cộng đồng quốc tế.
Để đảm bảo trật
tự, an toàn cho các hoạt động ở biển cả và bảo tồn tài nguyên sinh vật ở biển
cả, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 ghi nhận một loạt những
quy định về:
- Quy chế pháp lý đối với các loại tàu thuyền hoạt
động ở biển cả; quyền và nghĩa vụ của quốc gia có tàu đối với tàu thuyền hoạt
động ở biển cả;
- Việc ngăn chặn
và cấm các hoạt động chuyên chở nô lệ, buôn bán bất hợp pháp ma tuý và các chất
kích thích, cướp biển, phát sóng truyền thanh, truyền hình bất hợp pháp từ biển
cả hướng vào đất liền;
- Sự hợp tác
giữa các quốc gia trong việc khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật
ở biển cả.
Ngoài ra, cần
chú ý đến quyền khám xét và quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài trong biển
cả.
b. Đáy đại
đương: Là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài các vùng biển thuộc
quyền tài phán quốc gia, được gọi là Vùng theo quy định Công ước của Liên Hợp
quốc về Luật biển năm 1982.
- Vùng và tài
nguyên của Vùng bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí, kể
cả các khối đa kim nằm ở đáy đại dương và trong lòng đất dưới đáy - là di sản
chung của nhân loại;
- Việc thăm dò,
khai thác tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua một tổ chức quốc tế, gọi
là Cơ quan quyền lực quốc tế (ta quen gọi là Cơ quan quyền lực Đáy đại dương).
Cơ quan quyền lực quốc tế bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không
phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do những
hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình;
- Cơ quan quyền
lực có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp cho việc sử
dụng Vùng vào mục đích hoà bình, ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi
trường biển, bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên
thiên nhiên của Vùng, phòng ngừa những thiệt hại đối với hệ động vật và hệ thực
vật.
5. Quyền và
nghĩa vụ của các quốc gia không có biển
Các quốc gia
không có biển có quyền đi ra biển và đi từ biển vào để thực hiện các quyền mà
những quốc gia này được hưởng theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm
1982, kể cả các quyền liên quan tới tự do trên biển cả và liên quan đến những
lợi ích phát sinh từ chế độ di sản chung của nhân loại;
Các quốc gia
không có biển thực hiện quyền đi ra biển thông qua những thoả thuận trực tiếp,
phân khu vực hay khu vực với quốc gia láng giềng có biển - được gọi là quốc gia
quá cảnh;
Quốc gia quá
cảnh có quyền định ra mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng các quyền và các
điều kiện thuận lợi được quy định trong Công ước vì lợi ích của quốc gia không
có biển không hề dụng chạm đến các quyển lợi chính đáng của quốc gia quá cảnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét