“Diễn biến hoà bình” lúc đầu chỉ là một biện pháp,
thủ đoạn để ngăn chặn sự phát triển của CNXH, theo thời gian nó trở thành một
bộ phận chủ yếu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, qua các thời kỳ phát triển nó
thành một chiến lược nhằm xoá bỏ CNXH với tư tưởng “chiến thắng không cần chiến
tranh”.
Chiến lược “Ngăn chặn” của Tổng thống Truman (Harry S. Truman) công
bố năm 1947, là chiến lược an ninh quốc gia đầu tiên của Mỹ. Sau Đại chiến thế
giới lần thứ II, cục diện thế giới 2 cực được hình thành. Liên Xô và Mỹ trở
thành 2 cường quốc mạnh nhất thế giới, đấu tranh quyết liệt với nhau.
Dựa vào sức mạnh của mình (Mỹ chiếm 62% tổng sản lượng công nghiệp, 1/3
khối lượng thương mại, 2/3 vàng dự trữ của thế giới), tháng 3-1947, Tổng
thống Mỹ, Truman đã công bố chiến lược
“ngăn chặn” nhằm kiềm chế Liên Xô và các nước XHCN. Sau 40 năm, người Mỹ đã
nhận ra rằng không thể ngăn chặn được Liên Xô bằng chính sách pháo hạm và không
thể tiêu diệt được Liên Xô bằng chiến tranh. Trục phát xít (Đức, ý, Nhật) và các nước
đế quốc già bị thiệt hại nặng nề trong chiến tranh, Mỹ đã nhảy lên làm bá chủ
thế giới và là cường quốc số 1 về quân sự.
Một loạt các nước XHCN ra đời và trở thành hệ thống trên thế giới (chiếm
35% dân số thế giới) đối lập với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Hệ thống XHCN đã
thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình độc
lập dân tộc của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Mặc dù Liên Xô và Mỹ là đồng minh chống phát xít, nhưng do 2
nước có lợi ích đối lập nhau, Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh lạnh chống lại
Liên Xô và các nước XHCN.
Chính quyền
Mỹ đã sử dụng các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao... để hỗ
trợ cho hoạt động pháp quân sự trong chống phá các nước XHCN. Năm 1948, nhà
ngoại giao Mỹ là Akisơn đã đề xuất với Tổng thống Mỹ Truman dùng các biện pháp
“phi quân sự” để xâm nhập vào các lĩnh vực nhằm chống các nước XHCN. Từ đó,
“DBHB” được hình thành và trở thành biện pháp để chống lại CNXH. Trong thời
gian này, các thế lực phản động quốc tế thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn
chặn” CNXH là chính, còn “DBHB” được xem như một biện pháp hỗ trợ cho tiến công
quân sự.
Để thực hiện
chiến lược “ngăn chặn”, Mỹ thành lập các khối quân sự; các căn cứ quân sự ở
khắp nơi trên thế giới và tiến hành can thiệp vũ trang.
Tháng
5-1949, thành lập Khối Quân sự Bắc Đại
tây dương (NATO) gồm: 14 nước, trong đó có 10 nước châu Âu và Mỹ, Canađa,
Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp. Mục tiêu của Tổ chức này là “ngăn chặn” Liên Xô và cộng sản
châu Âu. Tháng 9-1954, thành lập Khối
SEATO gồm 8 nước: Anh, Pháp, Mỹ, úc,
Thái, Tân Tây Lan, Philíppin ,
Pakistan . Tháng
2-1955, thành lập Khối SENTO gồm:
Irắc, Thổ , Iran ,
Pakistan
do Mỹ và Anh bảo trợ. Tháng 6-1951, thành lập Khối ANZUYT gồm: Mỹ, úc, Tân Tây Lan nhằm tăng cường vai trò của Mỹ
ở Đông Nam á - Thái Bình
Dương, chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam á.
Thời
kỳ 1989-1993, hệ thống các nước XHCN xuất hiện những rạn nứt, suy yếu và sụp
đổ, chiến lược “vượt trên ngăn chặn” đã ra đời. Đây là một chiến lược tiến
công, đối tượng chủ yếu là nhằm vào Liên Xô và các nước XHCN. Dựa trên cơ sở
duy trì sức mạnh quân sự răn đe, tiến hành tổng hợp các thủ đoạn, biện pháp về
chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá - xã hội khiến cho các nước này tự diễn
biến và tan rã từ bên trong. Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, nội bộ Liên Xô
phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Mỹ và các nước phương Tây đã nhận biết được và
không bỏ lỡ cơ hội đó, triệt để lợi dụng chống phá.
Năm
1988, Tổng thống Mỹ Rigân công bố Chiến lược “vượt trên ngăn chặn”. Biện pháp
chủ yếu của chiến lược này là thực hiện “diễn biến hoà bình” kết hợp với răn đe
quân sự đối với Liên Xô và các nước XHCN. Chiến lược này đã thúc đẩy các nước
XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ.
Từ
năm 1994 đến nay, Mỹ thực hiện chiến lược “dính líu và khuyếch trương”. Đây là
bước phát triển của chiến lược “diễn biến hoà bình” ở thời kỳ sau khi Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhằm xoá bỏ các
nước XHCN còn lại hình thành trật tự thế giới mới do Mỹ cầm đầu. Chiến lược
“dính líu và khuyếch trương” còn gọi là chiến dịch “can dự và mở rộng” (công bố vào 7-1994).
Với tư tưởng là: “Để làm suy yếu một nước
cần phải đi chính từ bản thân nó, phải dính líu từ bên trong”. Muốn khuyếch
trương sức mạnh của mình thì Mỹ phải dính líu với các nước. Mỹ tăng cường vai
trò của mình trong các vấn đề quốc tế và can thiệp sâu vào các công việc nội bộ
các nước XHCN, chống lại phong trào độc lập dân tộc, kiềm chế các nước có khả
năng thách thức vị trí của Mỹ và tiêu diệt các nước chống lại Mỹ. Ưu tiên hàng
đầu là xoá bỏ các nước XHCN”. Chiến
lược “diễn biến
hoà bình” nhằm chuyển hoá chế
độ, kích động hoạt động chống đối từ bên trong để lật đổ chế độ, đồng thời duy
trì sức ép quân sự, sẵn sàng can thiệp vũ trang.
Chiến lược “can dự và mở rộng” tập
trung vào các lĩnh vực chủ yếu: Lợi dụng các nước XHCN cải cách, mở cửa, đổi
mới để tiếp cận can dự vào công việc nội bộ, để chuyển hoá chế độ. Thủ đoạn
hàng đầu là dùng đầu tư làm thay đổi cơ cấu kinh tế, làm cho kinh tế tư nhân
dần dần chiếm ưu thế trong nền kinh tế quốc dân. Thực hiện can dự để kích động
các hoạt động chống đối, bạo loạn làm suy yếu các nước tiến tới lật đổ chế độ.
Những năm sau đó, Tổng thống Bin Clintơn có 4 lần điều chỉnh chiến lược an ninh
quốc gia: 1996; 1997; 1998; 2000. Nhưng cơ bản vẫn dựa trên nền tảng chiến lược
“can dự và mở rộng”.
Hiện
nay và những năm tiếp theo, “diễn biến hoà bình” vẫn là chiến lược chủ yếu mà
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động sử dụng để chống phá các nước tiến
bộ, trước hết là các nước XHCN còn lại. Chúng coi Việt Nam là một trọng điểm chống phá. Vì
vậy, chúng ta phải đề cao cảnh giác, phát huy sức mạnh tổng hợp làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét